ASP#7. Câu lệnh lặp trong ASP                    ASP#6. Lệnh điều kiện (if-then) trong ASP                    Thơ kể chuyện cổ tích: Sọ Dừa                    Các hàm toán học trong Excel                    Các hàm thống kê cơ bản trong Excel                    


P Phân tích chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Em hãy phân tích chất thép và chất tình trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

                                                                                   BÀI LÀM

Thầm lặng sánh bước cùng Người nơi đất khách quê người lúc xế chiều yên bình, đâu đó nhẹ vương những dải mây hồng hòa trong cảnh núi non hùng vĩ. Thiên nhiên như một người bạn tâm giao, cứ thế đi vào thơ của Người một cách sâu lắng nhất, ngọt ngào nhất dẫu có trong cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng”. Phải chăng vì thế mà Hoàng Trung Thông đã thổn thức khi nhắc về thơ Bác:

“Vần thơ của Bác vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”

Và mỗi vần thơ trong “Chiều tối” chính là như thế, là sự hòa quyện, quấn quýt giữa “thép” và “tình”.

Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương (Ngâm thơ ta vốn không ham) nhưng Người đã nhận ra rằng văn chương là một loại vũ khí sắc bén đầy lợi hại để đấu tranh cách mạng và cũng là phương tiện rất hiệu nghiệm để động viên chiến sĩ, đồng bào: Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy; Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Chính vì vậy, tất cả sáng tác văn học của Bác đều trở thành một bộ phận trong sự nghiệp đấu tranh cho từng giai đoạn cách mạng ở nước ta. Dẫu như thế nhưng Bác vẫn mang nặng tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ Tố Hữu từng tâm sự về Bác thế này: “Người yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”, nâng niu mọi vẻ đẹp của cuộc sống, rung cảm trước một ngọn gió, làn mây, một cánh chim chiều, trước núi non hùng vĩ, dòng sông thơ mộng,..”. Để rồi trên con đường chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942 Người đã viết “Chiều tối” khắc họa bức tranh toàn cảnh nơi đất khách quê người cùng tâm tư của người con tha hương.

Hoài Thanh - nhà phê bình văn học từng khẳng định: “Không phải cứ lên giọng thép, nói chuyện thép mới là tinh thần thép”. Nói tới thép trong thơ Bác tức là khẳng định ý chí, nghị lực và tinh thần lạc quan của người tù cộng sản, người chiến sĩ cách mạng. Trong thơ nay đã có “thép” mà “tình” từ muôn thuở vẫn cứ dạt dào. Ấy là tình cảm dành cho thiên nhiên, con người, vạn vật.

Trước hết tôi muốn làm rõ cái tình muôn thuở trong thơ Bác. Trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, khi kể về những ngày Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giải đi qua gần ba mươi nhà tù, tác giả Trần Dân Tiên viết: “Mỗi buổi sáng, gà gáy đầu, người ta giải Cụ Hồ đi. Mỗi buổi chiều, khi chim về tổ, người ta dừng lại ở một địa phương nào đó, giam Cụ Hồ vào trong xà lim…”. Bài “Chiều tối” có lẽ được nảy nở trên con đường lưu đầy gian khổ đó nhưng mở đầu bài thơ, Người đã khắc họa bức tranh thiên nhiên rất gợi:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Ở đây không phải chim bay trong trạng thái bình thường mà bay mệt mỏi, bay mải miết cho kịp tới chốn nghỉ ngơi nơi rừng xanh quen thuộc song đó là một cánh chim có đích, đang chuyển dần từ trạng thái bay sang nghỉ ngơi để chuẩn bị cho ngày mới. Khi nắng mai rót vào trời xanh, cũng là lúc cánh chim ấy tiếp tục hành trình của mình. Và rồi “cánh chim mỏi” ấy cho ta liên tưởng đến tình cảnh của Bác trên đường chuyển lao khó nhọc. Trong bài thơ “Mới đến nhà lao Thiên Bảo”, Bác có viết về hành trình gian lao, nhọc nhằn ấy:

“Nhật hành ngũ thập tam công lí

Thấp tận ý quan phá tận hài”.

(Năm mươi ba dặm một ngày trời

Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi.)

Sự đối sánh càng xót xa hơn khi cuối chặng đường bay của cánh chim chiều là tổ ấm – sự ấm áp, bình yên hiện rõ trong sắc thái ý nghĩa của từ “quy” – “về” giữa dòng thơ, còn cuối chặng đường của người tù là một nhà lao, nơi tiềm ẩn những đọa đày đau khổ! Qua hình ảnh chim mệt mỏi, người đi còn tìm thấy sự tương đồng hòa hợp với cảnh ngộ và tâm trạng của mình. Cánh chim mệt mỏi mải miết bay về rừng xanh tìm chốn ngủ, người tù cũng mệt mỏi lê bước trên đường lưu đày, giờ đây không biết đâu là chặng nghỉ qua đêm. Sự tương đồng ấy dễ tạo nên sự cảm thông sâu sắc giữa người và cảnh. Cội nguồn của sự cảm thông chính là tình yêu thương rộng lớn của Bác luôn dành cho mọi sự sống chân chính ở trên đời.

Nối dài bức tranh thiên nhiên trên đường chuyển lao, hình ảnh “chòm mây lẻ” được chấm phá thật tuyệt trên nền trời mùa thu:

“Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Theo nguyên tác, hai từ “cô vân” – nghĩa là “chòm mây lẻ loi, cô độc” và “mạn mạn” – nghĩa là “chậm chạp, lững lờ”. Nhưng thật đáng tiếc, bản dịch đã đánh mất hai ý nghĩa quan trọng, theo đó, khung cảnh phần nào kém đi cái hiu quạnh vốn có của nó, mà lại có phần nhẹ nhàng, uyển chuyển, thanh thoát hơn, mất đi cái cô đơn, mệt mỏi của tác giả trên đường chuyển lao. Câu thơ thứ hai này gợi cho ta nhớ tới hình ảnh:

“Ngàn năm mây trắng bây giờ vẫn bay”.

(Hoàng hạc lâu – Thôi Hiệu)

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

(Thu điếu – Nguyễn Khuyến)

Thơ ca trung đại thường hướng tới mây của ngàn năm, mây của sự vĩnh hằng tĩnh tại, hay như trong hai câu thơ của Lí Bạch, cánh chim “bay đi nhanh, vào vô tận”, chòm mây thì “bay đi hết, tan biến vào hư vô”, tất cả đều toát lên vẻ thanh tao, thoát tục: “Cô vân độc khứ nhàn”. Còn trong câu thơ của Hồ Chí Minh, vừa chứa một cái gì đó như phong vị Đường thi, phong vị cổ điển, nhưng chòm “mây” kia của thơ Bác lại thật giản dị, ấm nồng hơi cuộc sống mà vẫn diễn tả sự cô độc, ung dung, thư thái của thi nhân. Hai hình ảnh tương phản ở đầu và cuối câu thơ: “cô vân” – “ thiên không” khiến đám mây nhỏ nhoi, đơn độc giữa bầu trời mênh mông, rợn ngợp. Từ láy “mạn mạn” cho thấy đám mây bồng bềnh, trôi rất chậm giữa trời thu, từ đó người đọc có thể hình dung ra cả một khoảng trời trong trẻo, mênh mang, tĩnh lặng cũng một chút gió thu nhè nhẹ, hiu hắt, u buồn. Có thể nhận ra đám mây nhỏ bé ấy là sự phản chiếu cảnh ngộ và tâm trạng của người tù đang đơn độc nơi đất khách quê người. Nỗi buồn, sự cô đơn của người và cảnh như đã thấm vào nhau trong một sự liên tưởng và hòa hợp kì lạ. Phải có một tâm hồn ung dung, thư thái thì người tù mới có thể tạm quên sự đau đớn của thể xác để dõi theo một cánh chim, một chòm mây giữa bầu trời lúc hoàng hôn như vậy! Với những thi liệu cổ điển quen thuộc, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp chấm phá chỉ gợi mà ít tả, bằng hai nét vẽ đơn sơ, tác giả Hồ Chí Minh đã ghi lấy linh hồn tạo vật, dựng lên cả một không gian mênh mông, yên ả, u hoài, một bức tranh chiều muộn thanh bình miền sơn cước.

Trong chính cái “tình” dạt dào mênh mông Bác ưu ái dành cho thiên nhiên thì ta vẫn thấy ở đó chất “thép” của một người chiến sĩ cách mạng. Trước mắt Người không gì khác ngoài một nhà tù đầy muỗi, rệp bẩn thỉu, vậy mà Bác vẫn vượt lên cảnh ngộ bản thân, tinh thần vẫn lạc quan, yêu đời, ung dung tự tại vượt lên trên hoàn cảnh mà rung động trước cái đẹp của thiên nhiên tạo vật, như trong bài Ngắm trăng Người đã viết: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ… “Thép” là ở đó chứ đâu phải “thép” là “lên gân lên cốt”. Trong một bài thơ khác, Bác viết:

“Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”

Bài thơ này hoàn toàn không thấy nhà thơ nói đến nỗi đau khổ, bồn chồn vì mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên nhường chỗ cho bức tranh đời sống sinh hoạt của con người với niềm yêu đời, yêu người thiết tha:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”

(Cô em xóm núi xây ngô tối.)

Thiếu nữ xóm núi trong câu thơ Hồ Chí Minh được miêu tả ở vị trí trung tâm, cận cảnh của bức tranh chiều tối nơi núi rừng; trong hoàn cảnh lao động. Bức tranh đời sống của Bác thật gần gũi, ấm áp; ngôn ngữ thơ từ ước lệ tượng trưng sang giản dị, hiện thực, từ viễn cảnh sang cận cảnh. Chân dung bức tranh là hình ảnh cô gái xay ngô. Sự nối tiếp “ma bao túc” – “bao túc ma hoàn” gợi lên những động tác xay ngô liên tục, nhịp quay đều đều của chiếc cối xay ngô, đó là sự hăng say lao động thật đáng quý. Hình ảnh cô gái xay ngô tuy là hình ảnh bé nhỏ giản dị, nhưng cô đang hăng say lao động, làm công việc nặng nhọc. Với nét vẽ đậm, khỏe, nhà thơ đã đặt con người vào vị trí trung tâm. Tư thế của cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và cuộc sống lao động càng trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Nó đem lại cho người tù hơi ấm của sự sống cùng niềm vui và hạnh phúc trước cuộc sống bình dị của những con người tuy vất vả mà tự do. Phải là một người yêu đời, yêu cuộc sống vô cùng, một tâm hồn lạc quan, luôn hướng về sự sống mới có thể ghi lại một hình ảnh tinh tế của cô thôn nữ với cuộc sống lao động, sinh hoạt hàng ngày bình dị. Đó cũng là sự đồng cảm của Bác với sự vất vả lao động của những con người lao động. Người đã thể hiện sự thương cảm, đồng cảm. Đồng thời từ đó, tác giả đã lấy lao động làm niềm vui sướng, hứng khởi. Bác quên đi mệt mỏi và chỉ chú tâm vào lao động. Khi bóng tối của ngày tàn buông xuống nhưng không gian không hề tăm tối, con người đã kịp thắp lên ngọn lửa, tạo nên ánh sáng, tạo nên hơi ấm để sưởi ấm cho người, cho cảnh vật thiên nhiên. Ánh sáng, hơi ấm, con người đã mang lại niềm vui bình dị cho người tù nơi xa xứ. Trong cảnh ngộ gian lao của riêng mình, Bác vẫn tìm thấy niềm vui. Niềm vui ấy xuất phát từ cuộc sống lao động của người dân Trung Hoa mà người bắt gặp trên đường chuyển lao. Chính tình yêu cuộc sống và thiên nhiên đã giúp Người quên đi nỗi vất vả, nhọc nhằn nơi mình và vơi đi niềm thương nhớ quê hương để cùng chia sẻ với niềm vui nho nhỏ đời thường của người dân lao động, với bếp lửa hồng nơi xóm núi:

“Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

(Xay hết, lò than đã rực hồng.)

Trong cảnh chiều muộn ở vùng sơn cước tưởng chừng chỉ có bóng tối hoàng hôn bao phủ, chỉ có heo hút quạnh hiu, nào ngờ có ánh sáng ấm áp đã rực lên xua tan giá lạnh, bóng tối. Sự xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên “lò than rực hồng” đã mang lại ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp. Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật thu dần vào một điểm – là lò than đỏ rực rồi tỏa hơi ấm theo âm thanh nồng đượm của chữ “hồng”. Thoát khỏi văn phong cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều chất hiện đại, mộc mạc, đời thường và điều đó thể hiện rõ ở chữ “bao túc” được xuất hiện đến hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà không hề để ý đến thời gian. Cứ hết túi ngô này (ma bao túc) rồi lại đến túi ngô khác (bao túc ma) để rồi đến khi ngô vừa xay xong (bao túc ma hoàn) thì trời đã tối, “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng). Chữ “hồng” kết thúc bài thơ thật tự nhiên mà cũng thật bất ngờ. Nếu hình dung cả bài thơ là một bức tranh thì chính cái chấm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa chấm lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh, dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người tù đang cất bước trên con đường xa thẳm. Còn nhớ Nguyễn Trung Thông từng nhận xét về chữ “hồng” trong thơ Bác như thế này: “Hồ Chí Minh rất Đường mà không Đường một tí nào. Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “con mắt” thơ (thi nhã hoặc nhãn tự), nó bừng sáng lên, nó cân lại chỉ một chữ thôi với hai bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác”. Thật đúng như lời nhận xét ấy, bởi ta thấy được sự vận động tích cực trong mạch thơ: trong cảnh chiều muộn ở vùng sơn cước tưởng chừng chỉ có bóng tối hoàng hôn bao phủ, chỉ có heo hút quạnh hiu, nào ngờ có ánh sáng ấm áp đã rực lên xua tan giá lạnh, bóng tối. Sự xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ trong khung cảnh lao động, bên lò than rực hồng đã mang lại ánh sáng và niềm vui, mang lại sự sống mãnh liệt và ấm áp. Sự vận động tích cực trong mạch thơ ấy cũng được thể hiện trong bài “Giải đi sớm”:

“Gà gáy một lần, đêm chưa tàn,

Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;

Người đi xa đã cất bước trên đường xa,

Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.

Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,

Bóng đêm còn rơi rớt sớm đã hết sạch;

Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,

Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”.

Vậy là tâm trạng của nhà thơ được vận động từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo cô đơn đến nóng ấm, từ lụi tàn đến sự sống. Qua đó ta thấy được chất “thép” và “tình” hòa quyện, quấn quýt. Lòng lạc quan, niềm tin, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt hòa với tình yêu đời, yêu người vô hạn, mênh mông của Bác. Trong cảnh ngộ đau khổ của riêng mình, đằng sau lưng là một ngày đi đường vất vả, thường là đi từ rất sớm 53 cây số một ngày, áo mũ dầm mưa rách hết giầy. Trước mắt là những nguy hiểm đón chờ, một xó nhà tù khác lạnh lẽo và đầy muỗi rệp, cái bụng lại đói meo. Đã thế cái tối lại sập xuống nơi núi rừng mà bước chân lưu đày của Người nơi đất khách tha hương vẫn chưa được dừng bước. Trong hoàn cảnh đó chúng ta vẫn có thể chờ đợi ở Bác một sự chạnh nghĩ đến mình, một thoáng thương thân, như một số bài thơ khác ta thường gặp. Và nếu tứ thơ có phát triển theo hướng đó thì cũng là phải lẽ và có thể cũng rất hay rất lớn. Nhưng giữa bao tăm tối dày đặc đó: Người luôn hướng về cuộc sống lạc quan với một tư tưởng cách mạng kiên cường, cứng rắn như thép, không chút sờn lòng.

Chất tình nhờ chất thép mà thêm nồng hậu. Nhờ tinh thần vững vàng nên trái tim luôn rung cảm sâu sắc với nhiều kiếp người. Chất thép cũng nhờ chất tình mà được nâng lên. Trái tim chan chứa yêu thương và tấm lòng luôn hướng về con người, cuộc đời đã nuôi dưỡng và củng cố niềm tin cho Bác đương đầu với mọi thử thách và bên bỉ giữ vững niềm lạc quan cách mạng.

Bài thơ bốn dòng, hai mươi bảy chữ đã thể hiện tinh thần lạc quan, ung dung, tự tại, kiên cường vượt qua mọi hoàn cảnh sống cùng tình yêu bao la Bác ưu ái dành cho vạn vật trên cõi đời. Vì thế “Chiều tối” đã sống mãi trong hơi thở của thời đại, băng qua dòng chảy nghiệt ngã của thời gian.

(Nguồn: https://hocvanchihien.com/Vn/Ngu-Van-11-%7C-Chat-thep-va-chat-tinh-trong-bai-tho-Chieu-toi--News-5912)

1681 - Hoàng Thị Hương - 16/06/2022 16:10



Ảnh minh họa




Link chia sẻ bài viết
Copy
https://tritue.edu.vn/tritueyii1/index.php/post/view?id=88

Bài viết liên quan


Bài viết mới

Bài viết được xem nhiều

Chủ đề được quan tâm


tritue.edu.vn       43 members, 209664 visitors

Copyright © 2019 - 2024 by tuetamsuphu@gmail.com
All Rights Reserved.