Hãy nêu suy nghĩ cảm nhận của em về tác phẩm "Người lái đò sông Đà" của tác giả Nguyễn Tuân.
Người lái đò sông Đà được trích trong tập tùy bút Sông Đà, đây là kết quả của chuyến đi ngược dòng cùng bộ đội về Tây Bắc của Nguyễn Tuân, đặc biệt là chuyến đi thực tế vào năm 1958. Trong quá trình xâm nhập Nguyễn Tuân đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng vĩ, kỳ bí của núi rừng Tây Bắc đặc biệt là dòng sông Đà dữ dội, tuyệt mỹ. Hiện thực xây dựng vùng núi Tây Bắc đã để lại trong tâm hồn người nghệ sĩ những dấu ấn sâu đậm, vẻ đẹp thơ mộng kỳ vĩ ấy đã chắp cánh cho tác giả viết nên những trang tùy bút đầy hấp dẫn với văn phong cá tính đậm chất Nguyễn Tuân. Tác giả không chỉ phát hiện ra vẻ đẹp của Tây Bắc mà còn phát hiện ra vẻ đẹp của con người Tây Bắc, mà ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” là “chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”.
Nhà văn khắc họa hình tượng sông Đà, một con sông với vẻ ngoài vô cùng hung bạo, dữ dội và cũng hết sức thơ mộng, đậm chất trữ tình. Có người đã đưa ra nhận xét rất hay như này, đại khái con sông Đà là một con sông độc lạ và nó vô cùng thích hợp với một ngòi bút độc lạ như Nguyễn Tuân – “cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam”. Cái cá tính mạnh mẽ của sông Đà được tác miêu tả qua hai câu thơ sau “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”, dòng sông ấy lạ thế, mọi con sông đều đổ về đông, riêng sông Đà lại thích ngược về Bắc. Cũng tương tự như cái cá tính văn chương của Nguyễn Tuân, ông chẳng theo một trường phái nào, cứ độc lai độc vãng cho ra những tác phẩm thần sầu. Bằng tình cảm yêu thương, trân trọng như tri kỷ gắn bó, nhà văn đã thức tỉnh con sông dậy bằng cách phủ lên nó một một tấm linh hồn, đưa vào từng trang tùy bút của mình như hình ảnh một con người thực thụ nhiều tài nhưng cũng lắm tật, chốc chốc lại gắt gỏng hung dữ, chốc chốc lại hiền thục, dịu dàng, thật không thể kiểm soát nổi. Nguyễn Tuân với sự am hiểu sâu sắc, đã cung cấp cho người đọc người nghe những kiến thức địa lý đầy hấp dẫn về con sông Đà qua những dòng chữ uyển chuyển, độc đáo nào là sông Đà vốn bắt nguồn từ Trung Quốc, lưu lạc 400 ki-lô-mét trên xứ người rồi mới tràn về đất Việt thân yêu và nhập quốc tịch tại Mường Tè, Lai Châu. Cách viết ấy đã làm cho con sông tồn tại như một sinh thể, có linh hồn, chúng ta có thể cảm nhận, chiêm nghiệm về cuộc đời đầy sóng gió của sông Đà.
Sông Đà trong văn chương của Nguyễn Tuân rất lạ, nó chứa trong mình hai thái cực đối lập nhau. Ở nơi thượng nguồn, giữa rừng già bát ngát, giữa núi non sừng sững, con sông mang sắc thái hung bạo dữ dội, với vẻ đẹp kiêu ngạo hùng vĩ. Vẻ hùng vĩ ấy thể hiện qua các chi tiết mà tác giả cất công quan sát tỉ mỉ, dòng sông trở nên sinh động và hấp dẫn với “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông như yết hầu”, “con nai nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”,”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”, sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thật hoang dã, bí hiểm. Nguyễn Tuân tinh tế chọn ra khúc sông đặc thù nhất để đưa vào tập tùy bút của mình, đó là ghềnh Hát Loóng, khúc ghềnh ấy “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Sự tài tình của tác giả là việc thổi vào dòng sông vốn vô tri một linh hồn sống động, bằng lối viết tài hoa cấu trúc trùng điệp, tạo cho người nghe người đọc cảm giác được hình ảnh ghềnh thác bất tận của dòng sông Đà dữ dội. Rồi thì ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, trên sông có những cái “hút nước như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “Nước ở đây thở và kêu như cửa ống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã cung cấp cho độc giả một chi tiết đậm chất điện ảnh, ông tưởng tượng nếu như có anh nghệ sĩ quay phim táo bạo nào đấy thích thử cảm giác mới lạ, ngồi trên con thuyền, cho cả mình cả máy ảnh xuống cái “hút nước” để lưu lại cái khoảnh khắc xoáy tít như một cái gậy đánh phèn. Nhưng có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới có cái ý nghĩ táo tợn ấy mà thôi, rất sinh động và độc đáo, do cái văn phong của Nguyễn Tuân vốn xưa nay đã vậy, cùng với sự am tường về nghệ thuật của tác giả, thì đấy là lẽ đương nhiên.
Cái dữ dội, hùng vĩ của Sông Đà lại càng trở nên kỳ bí với cái mà tác giả gọi là “thạch trận” trên sông, Nguyễn Tuân mô tả đá ở đây nghìn năm vẫn mai phục dưới lòng sông, mỗi lần có chiếc thuyền nào mà đi qua khúc quạnh hiu này thì một số hòn đá “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, hòn nào cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, đứng, ngồi nằm có đủ cả. Chúng giống như một con người đang giở trò khiêu khích, như là kẻ thù số một của những người lái đò qua khúc này, khó chịu ghê gớm. Khủng khiếp hơn, chúng lại còn chia cửa sinh, cửa tử, rồi luồng sống, luồng chết, chẳng biết đâu mà lần. Thêm một điểm đặc sắc của sông Đà đó là thác nước, vừa khiêu khích, lại van xin, oán trách, khi thì rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng trong vật lộn giữa vầu rừng tre nứa nổ lửa. Hình ảnh sông Đà thật hoang dại, đôi khi còn khiến ta cảm thấy rùng rợn, khủng khiếp như con quái vật đang nhăm nhe trực chờ món mồi ngon sa lưới, nhưng đợi mãi chẳng thấy đâu nên trở nên giận dữ bực bội.
Thực tình sông Đà là con sông rất xấu tính, cứ đời đời kiếp kiếp thích là mình làm mẩy với con người Tây Bắc, nhưng với sự tài hoa, bằng con mắt nghệ sĩ Nguyễn Tuân còn phát hiện ra vẻ đẹp vô cùng thơ mộng, đậm chất trữ tình của con sông Đà. Hình dáng của con sông được tác giả miêu tả “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo.”, trong mắt nhà văn sông Đà giống như một mỹ nhân đỏng đảnh, khó tính. Tình yêu quê hương đất nước của Nguyễn Tuân được bộc lộ sâu sắc qua những dòng văn đầy tài hoa, với những màu sắc xinh đẹp của dòng sông “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu lừ đừ tím đỏ như khuôn mặt một người bầm đi vì rượu”,… Nguyễn Tuân không chỉ xem sông Đà như một mỹ nhân, mà còn là cố nhân, đôi khi lại là một tình nhân chưa quen chưa biết, tác giả gửi gắm vào dòng sông một tình yêu thương sâu sắc vô bờ bến bằng những hình ảnh thơ mộng, mỹ lệ.
Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân còn vẽ lên chân dung Hình tượng người lái đò sông Đà vừa như một người chiến sĩ anh hùng trên mặt trận trèo ghềnh ,vượt thác vừa như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp. Xuyên suốt phần sau của tùy bút Người lái đò Sông Đà là hình ảnh ông lái đò Lai Châu trong cuộc chiến đấu đầy cam go, căng thẳng với dòng sông Đà hùng vĩ, to lớn. Ông lái đò hiện lên với thân hình mà mùi sông nước đã khắc sâu vào thân thể “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hi, nhưng ông lão nhìn có chút nào là người gần đất xa trời đâu, vẫn mạnh mẽ can trường lắm, niềm tin yêu cuộc sống, gắn bó với công việc đầy hiểm nguy đã trở thành đam mê bất diệt, trong cuộc sống. Tác giả không chọn người trai tráng khỏe mạnh, lại chọn một ông lão có vẻ chẳng ăn nhập lắm với công việc này, nhưng đấy mới chính là cái hay của cả tác phẩm. Với những nét đặc sắc ban đầu Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc người nghe những ấn tượng riêng thật sâu sắc. Đối với người lái đò, sông Đà như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc nằm lòng, cái sự tài hoa bậc thầy ấy được thể hiện trong việc ông lão lấy mắt mà tỉ mỉ ghi nhớ như “đóng đanh vào lòng”. Người lái đò như một nghệ sĩ am hiểu tường tận về cái mặt trận nghệ thuật ông theo đuổi cả đời người. Ông lái đò chính là một biểu tượng chính xác cho quan điểm về một người anh hùng tài năng “cưỡi sóng, đạp gió” chân chính. Trên mặt trận vượt thác leo ghềnh, để chiến đấu với con sông Đà hung bạo, gian xảo thì người lái đò phải cực kỳ dũng cảm, mưu trí, bởi chỉ vài giây sơ sẩy thì chính là đánh đổi cả tính mạng. Sự dũng cảm ấy thể hiện qua việc ông lái đò vượt qua cái gọi là “trùng vi thạch trận”, ông nắm chắc trong lòng bàn tay cái tính nết, chiến thuật của con sông Đà, mà theo như binh pháp Tôn Tử có nói “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng”, hiểu sâu sắc sông Đà, luôn bình tĩnh và tự tin. Trước những thế đòn hiểm độc của sông Đà, người lái đò buộc phải chống trả hoặc tránh né sao cho khéo léo để tránh thương tổn và chiến thắng con sông Đà, có những lúc bị thương nhưng ông lái đò vẫn nhẫn nhịn thương thế, để kẹp chặt cuống lái, bình tĩnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất. Trong trùng vi thạch trận thứ hai, vẫn giữ nguyên tinh thần bất khuất ấy, ông lái đò lập tức thay đổi ngay chiến thuật của mình, vào thế giằng co, quyết đáng nhanh thắng nhanh. Ông đò đã nắm chắc được luồng sinh, lái miết một đường, và một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đồ vẫn nhớ mặt bọn này, bọn thác đá vẫn không ngừng khiêu khích, ông đò vẫn luôn bình tĩnh vì đã nắm được binh pháp của thần sông thần đá. Đến trùng vi thạch trận thứ ba, “bên phải bên trái đều là luồng chết” luồng sống nằm ngay giữa con thác, người lái đò “phóng thẳng thuyền”,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Qua ba trùng vi thạch trận cam go, đầy gay cấn ấy, mới thấy được sức mạnh của những người lái đò anh hùng, biểu tượng của những anh hùng trong cuộc sống lao động vất vả, rất bình tĩnh, rất thông minh, hành nghề vật lộn với thiên nhiên như một người nghệ sĩ điêu luyện. Đây là trận chiến giữa con người và thiên nhiên hùng vĩ, ngang ngược, thể hiện cái tinh thần bất khuất kiên cường của người chiến sĩ trên mặt trận của mình. Ngoài việc là một chiến sĩ, người lái đò còn là một người nghệ sĩ tài ba, nếu con sông Đà hung bạo và dữ dội thì đã có người lái đò chiến sĩ can trường quả cảm chế ngự, nếu con sông Đà thơ mộng và trữ tình thì lại có người lái đò nghệ sĩ tạo nên nghệ thuật của ngành lái đò trên sông Đà. Theo quan điểm của Nguyễn Tuân, nghệ sĩ không chỉ là những con người làm trong lĩnh vực nghệ thuật “mơ theo trăng, thơ thẩn cùng mây”, mà còn bao gồm những con người làm việc đạt đến trình độ nghệ thuật trong nghề nghiệp của mình. Trong tác phẩm, ông lái đò đích thực là một nghệ sĩ trong mặt trận vượt thác leo ghềnh, cái chất nghệ sĩ thể hiện ở sự đam mê đối với nghề nghiệp, hiểu sâu sắc tường tận về con sông Đà. “Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”, một cách so sánh đặc sắc của Nguyễn Tuân, sự thuần thục nhuần nhuyễn của người nghệ sĩ lái đò còn thể hiện qua ý “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Trong trận đánh với sông Đà, người nghệ sĩ còn bộc lộ được sự linh hoạt, ứng biến nhanh nhẹn để có thể vượt qua những khó khăn trước mắt.
Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu trong số các tác phẩm của Nguyễn Tuân mà còn là tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam hiện đại, bộc lộ hết được nét tài hoa, sáng tạo, cái sức lôi cuốn, hấp dẫn trong từng câu chữ qua ngòi bút tả thực, lời văn chân thực, trong sáng. Đây là bài ca ngợi hình tượng anh hùng quả cảm của con người lao động trong cuộc đấu tranh giành giật miếng cơm manh áo với thiên nhiên kỳ vĩ. Đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào, tấm lòng yêu quê hương núi rừng Tây Bắc sâu sắc của tác giả. Đọc văn của Nguyễn Tuân có thể thấy rằng bằng sự lao động nghiêm túc cần cù, ông đã để lại cho nền văn học những tác phẩm đặc sắc, đậm chất nghệ thuật, là những trang giấy tuyệt tác cho đời.
(Nguồn:https://thuthuat.taimienphi.vn/cam-nhan-ve-nguoi-lai-do-song-da-cua-nguyen-tuan-41545n.aspx#mauso2)
Ảnh minh họa
https://tritue.edu.vn/tuecode/tracnghiem30/index.php/baiviet/post/view/id/112?id=112